Thị trường carbon đang nổi lên như một cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc giảm phát thải khí nhà kính và đạt được lợi ích đa bên. Tuy nhiên, con đường đến với thị trường carbon vẫn còn nhiều thách thức và cần sự chuẩn bị kỹ lưỡng.

TS. Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và môi trường tại Diễn đàn Net Zero Việt Nam 2025: Thị trường carbon trong kỷ nguyên mới. Ảnh: Hoàng Anh.
Tại xã Cao Quảng, tỉnh Quảng Bình, các hộ dân đang tích cực bảo vệ và phục hồi rừng, gắn liền với hệ sinh thái bền vững. Tương tự, tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hàng vạn nông hộ đang triển khai thí điểm các mô hình trồng lúa phát thải thấp. Các thực hành như xử lý rơm rạ sau thu hoạch để tái sử dụng hoặc làm phân bón, luân canh lúa – tôm, lúa – hoa màu hay bón lót phân lân trước khi gieo hạt không chỉ giúp ruộng lúa đạt chất lượng cao, ít sâu bệnh mà còn hạn chế tác động tiêu cực tới môi trường.

Cộng đồng chủ rừng Cao Quảng, những nông hộ canh tác lúa bền vững tại miền Tây cùng nhiều cá nhân, tổ chức đang triển khai những giải pháp giảm phát thải đều đang trông chờ thị trường carbon được khởi động để nhận về những giá trị tương xứng với công sức, nỗ lực.

Theo kế hoạch của Chính phủ, thị trường carbon sẽ được vận hành thí điểm từ năm nay, tiến đến vận hành chính thức vào năm 2029. Thị trường carbon là cơ chế cho phép trao đổi, thương mại hóa chứng nhận giảm phát thải (CERs). Một tín chỉ carbon tương đương với quyền phát thải một tấn khí CO2. Việc giảm phát thải khí nhà kính có thể mang lại lợi ích tài chính cho các tổ chức, cá nhân thực hiện.

Mỏ Rạng Đông tiên phong thu hồi khí đồng hành để tạo tín chỉ carbon.
Tuy nhiên, để thị trường carbon phát triển, cần hoàn thiện khung khổ pháp lý và kỹ thuật. Hiện nay, đã có 80 quốc gia trên thế giới sử dụng cơ chế định giá carbon, chủ yếu dưới hình thức đánh thuế carbon và thị trường carbon.

Anh hùng lao động, Kỹ sư Hồ Quang Cua mong sớm được bán tín chỉ carbon để người dân được hưởng lợi từ thành quả giảm phát thải. Ảnh: Hoàng Anh
Việt Nam có thể bán được 57 triệu tín chỉ carbon mỗi năm, thu về khoảng 300 triệu USD. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần sự chuẩn bị và triển khai đồng bộ các điều kiện cần thiết.
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Phó viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và môi trường, cho biết, Quyết định 232 đã định hướng chiến lược tổng thể, mục tiêu cụ thể và các nhóm nhiệm vụ then chốt để vận hành thị trường carbon. Tuy nhiên, khung khổ pháp lý này vẫn chưa hoàn thiện và còn thiếu nhiều yếu tố để thiết lập một thị trường carbon đúng nghĩa.
TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển, cũng chung niềm mong ngóng với cộng đồng chủ rừng, nông hộ canh tác phát thải thấp về việc thị trường carbon được triển khai.
Ông Phạm Hồng Lượng, Phó cục trưởng Cục Lâm nghiệp và kiểm lâm, thừa nhận, việc tính toán tín chỉ carbon không phải là điều đơn giản và “không thể tự nghĩ ra cách tính mà trên thế giới không ai công nhận”.
Lãnh đạo Cục Lâm nghiệp và kiểm lâm kỳ vọng giai đoạn từ nay đến 2029 có thể kịp chuẩn bị các điều kiện cần thiết về thể chế, chính sách và mong muốn có sự đầu tư, hoàn thiện đồng bộ để hoàn thiện các yếu tố về công nghệ, năng lực triển khai và các điều kiện hỗ trợ thị trường tín chỉ carbon.
Việc hình thành thị trường carbon ở Việt Nam là một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu giảm phát thải và bảo vệ môi trường, đồng thời tạo ra cơ hội kinh tế mới cho các tổ chức và cá nhân tham gia vào việc giảm phát thải khí nhà kính.
Để tiếp cận thị trường carbon, Việt Nam cần đẩy mạnh các hoạt động giảm phát thải, tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo, bảo vệ và phát triển rừng, thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Hiện nay, nhiều tổ chức quốc tế và doanh nghiệp đã quan tâm đến thị trường carbon và có kế hoạch đầu tư vào lĩnh vực này tại Việt Nam.
Có thể thấy rằng thị trường carbon đang mở ra những cơ hội mới cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào việc giảm phát thải khí nhà kính, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Để thị trường carbon hoạt động hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, các tổ chức và doanh nghiệp.
Đây là cơ hội để Việt Nam không chỉ giảm phát thải khí nhà kính mà còn tạo ra lợi ích kinh tế và xã hội.