Tài chính xanh – Xahoivietnam.com https://xahoivietnam.com Cập nhật tin tức mới nhất về xã hội Việt Nam, văn hóa, đời sống, và những vấn đề thời sự. Tue, 09 Sep 2025 17:03:26 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/home.svg Tài chính xanh – Xahoivietnam.com https://xahoivietnam.com 32 32 Chuyển đổi xanh trong logistics: Doanh nghiệp cần ‘gasp’ bắt kịp xu thế https://xahoivietnam.com/chuyen-doi-xanh-trong-logistics-doanh-nghiep-can-gasp-bat-kip-xu-the/ Tue, 09 Sep 2025 17:03:24 +0000 https://xahoivietnam.com/chuyen-doi-xanh-trong-logistics-doanh-nghiep-can-gasp-bat-kip-xu-the/

Chuyển đổi xanh trong ngành logistics đang trở thành xu thế toàn cầu, nhưng phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn đang gặp khó khăn trong việc áp dụng các giải pháp thân thiện môi trường.

Tăng trưởng nhanh nhưng chuyển đổi xanh còn chậm

Ngành logistics Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, trung bình 14-16%/năm, cao gần gấp đôi so với tốc độ tăng GDP. Tuy nhiên, ngành vẫn đang phát triển âm thầm, thiếu vắng các doanh nghiệp quy mô lớn có khả năng dẫn dắt thị trường. Tại tọa đàm Chính sách tài chính phát triển logistics xanh do Tạp chí Kinh tế – Tài chính tổ chức, ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, yêu cầu về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh đã dần được các doanh nghiệp nhận thức nhưng việc thực thi trên thực tế còn hạn chế.

Ông Đặng Vũ Thành – Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho biết, chuyển đổi xanh không còn là xu hướng, mà đã và đang hiện diện trong từng hoạt động hằng ngày của doanh nghiệp logistics trên toàn cầu. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp logistics, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 95%, vẫn đang loay hoay với bài toán vốn, công nghệ và thực thi chính sách.

Chuyển đổi xanh không thể chỉ trông chờ từ phía doanh nghiệp

Dù nhận thức được xu thế tất yếu, phần lớn doanh nghiệp logistics Việt Nam vẫn đang đối mặt với hàng loạt rào cản khi triển khai chuyển đổi xanh. TS Đỗ Thiên Anh Tuấn, Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, cho biết, điểm nghẽn đầu tiên là vấn đề “tiền đâu?”. Trong khi 95-97% doanh nghiệp logistics là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), thì thị trường tài chính xanh ở Việt Nam lại còn rất non trẻ. Tính đến giữa năm nay, quy mô tài chính xanh chỉ chiếm 4,35% tổng tín dụng, thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 10% như kỳ vọng.

Các chuyên gia đều thống nhất rằng cần có sự điều phối mạnh mẽ từ Nhà nước, đặc biệt là các bộ ngành như Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước… Không thể chỉ kỳ vọng vào nỗ lực của doanh nghiệp khi các điều kiện về tài chính, pháp lý, và hạ tầng vẫn còn quá nhiều bất cập. Nhà nước cần sớm tích hợp chính sách ưu đãi thuế, trợ cấp cho doanh nghiệp chuyển đổi xanh, đưa trạm sạc, kho xanh, logistics thông minh vào quy hoạch đầu tư công.

Từ góc độ chính sách, các chuyên gia cho rằng, không thể có phát triển xanh nếu không có dòng vốn xanh. Và để có dòng vốn đó, cần sự chung tay của cả hệ thống, từ cơ quan quản lý, ngân hàng, đến chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ chuyển đổi xanh rõ ràng, minh bạch và có thể đo lường.

]]>
Phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp: Cần tháo gỡ rào cản về vốn và công nghệ https://xahoivietnam.com/phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-trong-nong-nghiep-can-thao-go-rao-can-ve-von-va-cong-nghe/ Thu, 04 Sep 2025 02:11:24 +0000 https://xahoivietnam.com/phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-trong-nong-nghiep-can-thao-go-rao-can-ve-von-va-cong-nghe/

Phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đang trở thành xu thế tất yếu để nâng cao chuỗi giá trị và đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam. Tại Diễn đàn Nông nghiệp 2025: Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp, các chuyên gia và doanh nghiệp đã tập trung thảo luận về những giải pháp và thách thức trong việc phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực này.

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng việc phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp không chỉ là bước đi tất yếu của Việt Nam mà còn là yêu cầu bắt buộc và động lực tiến tới nền nông nghiệp xanh, chi phí thấp, gia tăng chuỗi giá trị. Tuy nhiên, việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp vẫn gặp nhiều rào cản về đất đai, vốn và công nghệ. Ông Phòng đề xuất cần có cơ chế chính sách ưu đãi cao hơn để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp tuần hoàn.

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phát biểu tại Diễn đàn
Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phát biểu tại Diễn đàn

Ông Hà Văn Thắng, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam, nhấn mạnh sự cần thiết của việc hình thành một hệ sinh thái chính sách đồng bộ để hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn. Ông Thắng cũng đề cập đến sự cần thiết của cơ chế thử nghiệm linh hoạt đối với các mô hình đổi mới sáng tạo ở quy mô nông hộ, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nông nghiệp tuần hoàn.

Anh hùng Lao động Trần Mạnh Báo, Chủ tịch VSTA, Chủ tịch ThaiBinh Seed phát biểu tại Diễn đàn
Anh hùng Lao động Trần Mạnh Báo, Chủ tịch VSTA, Chủ tịch ThaiBinh Seed phát biểu tại Diễn đàn

Ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch ThaiBinh Seed, cho rằng phát triển ngành lúa gạo theo hướng tuần hoàn – bền vững – xanh là con đường tất yếu. Để hiện thực hóa mục tiêu này, ông Báo đề xuất cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nông dân, giới khoa học và nhà đầu tư. Việc ứng dụng công nghệ vào toàn bộ quy trình sản xuất, từ giống, sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, cũng như đầu tư vào chế biến sâu và công nghệ bảo quản hiện đại, được coi là giải pháp quan trọng để nâng cao chuỗi giá trị của ngành lúa gạo.

Các chuyên gia và doanh nghiệp cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc xây dựng hạ tầng vùng sản xuất tập trung, hoàn thiện tiêu chuẩn và quy trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm, đào tạo nhân lực và thúc đẩy kết nối thị trường. Việc hình thành một hệ sinh thái chính sách đồng bộ bao gồm các cơ chế hỗ trợ tài chính và tín dụng xanh, ưu đãi thuế và đất đai cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất sạch và tuần hoàn, là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp.

Tóm lại, phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp là xu thế tất yếu để nâng cao chuỗi giá trị và đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nông dân, giới khoa học và nhà đầu tư, cùng với việc xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ phù hợp, sẽ giúp hiện thực hóa mục tiêu này.

Ông Hà Văn Thắng, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam (VCAC), Chủ tịch HĐQT Công ty CP T&T 159 phát biểu tại Diễn đàn

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các tổ chức liên quan đang tích cực làm việc để xây dựng và thúc đẩy các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Để biết thêm thông tin chi tiết về các chính sách và chương trình hỗ trợ, vui lòng truy cập Cổng thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc liên hệ trực tiếp với các cơ quan chức năng.

]]>
MSB công bố Khung Tài chính Bền vững, cam kết tăng trưởng xanh https://xahoivietnam.com/msb-cong-bo-khung-tai-chinh-ben-vung-cam-ket-tang-truong-xanh/ Sat, 30 Aug 2025 05:55:36 +0000 https://xahoivietnam.com/msb-cong-bo-khung-tai-chinh-ben-vung-cam-ket-tang-truong-xanh/

Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB) vừa chính thức công bố Khung Tài chính Bền vững (Sustainable Finance Framework – SFF), đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lộ trình phát triển bền vững của ngân hàng. Khung tài chính này được xây dựng với sự hỗ trợ kỹ thuật từ Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới (The World Bank Group).

Mới đây, S&P Global Ratings, một tổ chức xếp hạng tín nhiệm toàn cầu, đã đưa ra ý kiến độc lập (SPO) cho SFF của MSB. SFF của MSB được phát triển dựa trên và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc được ban hành bởi Hiệp hội Thị trường Vốn Quốc tế (ICMA), Hiệp hội Thị trường cho vay (LMA), Hiệp hội Thị trường cho vay châu Á Thái Bình Dương (APLMA) và Hiệp hội Giao dịch và Hợp vốn cho vay (LSTA).

Theo khung tài chính này, nguồn vốn huy động từ mỗi khoản đi vay/trái phiếu xanh, xã hội hoặc bền vững của MSB sẽ được sử dụng để tài trợ hoặc tái tài trợ cho các tài sản và dự án đủ điều kiện thuộc 8 lĩnh vực xanh, 5 mục tiêu xã hội hoặc kết hợp lĩnh vực xanh và xã hội. Điều này giúp thúc đẩy Chương trình Nghị sự 2030 của Liên Hợp quốc, bao gồm 17 mục tiêu Phát triển bền vững (SDG), đồng thời đóng góp vào việc đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, phù hợp với cam kết của Chính phủ Việt Nam.

SFF của MSB được cấu trúc với 4 nội dung cốt lõi, bao gồm lựa chọn các tài sản/dự án có mục đích sử dụng vốn phù hợp với các tiêu chí đủ điều kiện; quy trình đánh giá và lựa chọn tài sản/dự án; cách thức quản lý nguồn vốn huy động; và công tác báo cáo, bao gồm báo cáo phân bổ và báo cáo tác động môi trường.

MSB đặt mục tiêu trọng yếu là phát triển cơ hội mới trong các lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng hiệu quả, giao thông vận tải sạch, công trình xanh, quản lý nước và nước thải bền vững, chống biến đổi khí hậu… Bên cạnh đó, các dự án xã hội cũng được chú trọng như tài chính toàn diện, hỗ trợ về y tế, giáo dục, bình đẳng giới và nhà ở có giá phải chăng.

Theo đánh giá của S&P Global Ratings, MSB đang cho thấy những bước đi hiệu quả trong việc tập trung đầu tư vào các hoạt động hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh, góp phần giải quyết các thách thức môi trường cấp bách tại Việt Nam như phát thải khí nhà kính và ô nhiễm.

Một điểm mạnh của MSB là thuộc số ít ngân hàng tại Việt Nam áp dụng các chuẩn tính toán của Hiệp hội Kế toán Carbon trong ngành Tài chính (PCAF) để đo lường lượng khí thải từ hoạt động cho vay thuộc phạm vi 3 (Scope 3 financed emissions). Việc hợp tác với các đối tác tư vấn để tính toán phát thải từ toàn bộ hoạt động của ngân hàng là bước đi tiên phong trên thị trường, thể hiện mức độ cam kết vượt trội của MSB trong việc quản lý rủi ro khí hậu so với thông lệ trong khu vực.

S&P Global Ratings cũng ghi nhận rằng hiện tại SFF của MSB không có điểm yếu trong các hoạt động phát triển bền vững. Đây là cơ sở để MSB nâng cao vị thế và uy tín với các nhà đầu tư quốc tế.

Khung Tài chính Bền vững của MSB không chỉ là công cụ nền tảng huy động vốn mà còn giúp định hướng chiến lược trong hoạt động cấp tín dụng, thúc đẩy ngân hàng và khách hàng cùng hướng tới tăng trưởng xanh, giảm thiểu rủi ro môi trường – xã hội, đồng thời góp phần cân bằng giữa mục tiêu kinh tế và lợi ích cộng đồng.

Trong những năm gần đây, MSB luôn coi phát triển bền vững là một hoạt động trọng tâm của ngân hàng. Về mặt quản trị rủi ro, năm 2023, MSB đã áp dụng Hệ thống Quản lý Môi trường và Xã hội (ESMS) trên toàn bộ danh mục cho vay. ESMS và công tác báo cáo của MSB phù hợp với các quy định pháp lý trong nước và tích hợp các tiêu chuẩn hoạt động quốc tế.

Với việc công bố Khung Tài chính Bền vững, MSB không chỉ tăng cường năng lực huy động vốn xanh – xã hội trên thị trường tài chính trong và ngoài nước mà còn khẳng định vai trò tiên phong trong việc lan tỏa xu thế phát triển bền vững tại Việt Nam, hướng đến hiện thực hóa các mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.

]]>
Thách thức tài chính cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam https://xahoivietnam.com/thach-thuc-tai-chinh-cho-tang-truong-xanh-o-viet-nam/ Sat, 02 Aug 2025 16:36:10 +0000 https://xahoivietnam.com/thach-thuc-tai-chinh-cho-tang-truong-xanh-o-viet-nam/

Chuyển đổi xanh đang trở thành xu thế tất yếu đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, quá trình thực hiện đang gặp phải nhiều thách thức cần được giải quyết. Theo TS Bùi Thanh Minh, Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tư nhân (Ban IV), áp lực tài chính đang là một trong những khó khăn lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt.

Được biết, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam sẽ cần khoảng 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022-2040 để xây dựng khả năng chống chịu và giảm phát thải nhà kính. Con số này tương đương 6,8% GDP mỗi năm. Trong đó, số vốn cần huy động từ khu vực tư nhân là 184 tỷ USD, từ khu vực công là 130 tỷ USD và từ nguồn ngoài là 54 tỷ USD. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là hiện tại, Việt Nam vẫn chưa có các chiến lược tài chính phù hợp cũng như hệ thống phân loại xanh (taxonomy) để có thể thu hút được dòng vốn xanh vào nền kinh tế.

‘Chuyển đổi xanh gặp áp lực tài chính’.
‘Chuyển đổi xanh gặp áp lực tài chính’.

PGS.TS Vũ Minh Khương, Giảng viên trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore, cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam cần phải tìm kiếm ‘kiến trúc sư’ cho tăng trưởng xanh. Theo ông, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài để xây dựng chiến lược phù hợp cho quá trình chuyển đổi xanh. Một trong những giải pháp được ông đề xuất là xây dựng tiêu chí và cam kết của doanh nghiệp trong việc giảm phát thải ra môi trường. Qua đó, tạo ra cuộc chạy đua trong việc chuyển đổi sang tăng trưởng xanh giữa các doanh nghiệp.

Bên cạnh những giải pháp về tài chính và chính sách, ý thức của người dân cũng được xem là yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh. PGS.TS Vũ Minh Khương cho rằng cần tạo ra cuộc cách mạng từ chính ý thức của người dân. Khi người dân có ý thức về tầm quan trọng của chuyển đổi xanh, họ sẽ có thể tạo ra sức ép lên các doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách để chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh.

Để thu hút dòng vốn xanh, Việt Nam cần thiết phải xây dựng hệ thống phân loại xanh (taxonomy) và các chiến lược tài chính phù hợp. Theo Ngân hàng Thế giới, các nước đang phát triển như Việt Nam cần phải có các chiến lược tài chính sáng tạo để có thể huy động được nguồn vốn cần thiết cho quá trình chuyển đổi xanh.

]]>
Việt Nam cần hệ thống quản lý tín chỉ carbon minh bạch để phát triển thị trường carbon https://xahoivietnam.com/viet-nam-can-he-thong-quan-ly-tin-chi-carbon-minh-bach-de-phat-trien-thi-truong-carbon/ Wed, 23 Jul 2025 13:41:53 +0000 https://xahoivietnam.com/viet-nam-can-he-thong-quan-ly-tin-chi-carbon-minh-bach-de-phat-trien-thi-truong-carbon/

Thị trường carbon đang nổi lên như một công cụ kinh tế quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển đổi xanh trên toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh các quốc gia đang nỗ lực hướng tới phát triển bền vững và giảm phát thải ròng xuống mức “0”. Việt Nam, với cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, đang khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý, nâng cấp hạ tầng dữ liệu và quản trị để xây dựng thị trường carbon minh bạch, hiệu quả và đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Tại Diễn đàn Net Zero Việt Nam 2025: Thị trường carbon trong kỷ nguyên mới, được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 18/7, các chuyên gia đã chia sẻ quan điểm về việc phát triển thị trường carbon như một giải pháp chiến lược giúp Việt Nam thực hiện hiệu quả cam kết Net Zero. Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhấn mạnh rằng việc phát triển thị trường carbon là một trong những giải pháp quan trọng. Bằng cách định giá phát thải và khuyến khích công nghệ sạch, thị trường này tạo ra động lực tài chính, thúc đẩy các sáng kiến giảm phát thải và giúp Việt Nam tiếp cận các nguồn lực quốc tế.

Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển thị trường carbon với mục tiêu kết nối thị trường trong nước với các cơ chế quốc tế. Các nền tảng pháp lý quan trọng đang được củng cố, bao gồm Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Nghị định số 119/2025/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, cũng như dự thảo Nghị định về sàn giao dịch carbon do Bộ Tài chính xây dựng. Bên cạnh đó, các sáng kiến từ doanh nghiệp và cộng đồng địa phương cho thấy tiềm năng lớn trong việc phát triển tín chỉ carbon ở các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng tái tạo và xử lý chất thải.

Tuy nhiên, thị trường carbon tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn định hình nền móng với nhiều khoảng trống cần được lấp đầy. Một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV) chưa đồng bộ, thiếu công cụ số hóa. Ông Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, cho rằng thị trường carbon chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi có một hệ thống đo lường, báo cáo, thẩm định đáng tin cậy và tương thích với quốc tế.

Bên cạnh khung pháp lý, các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò của nền tảng tài chính trong việc phát triển thị trường carbon. Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, bà Betty Palard, CEO ESG Climate Consulting, cho rằng Việt Nam có nhiều lợi thế để tham gia sâu vào thị trường carbon. Tuy nhiên, để tín chỉ carbon của Việt Nam có giá trị cao trên thị trường quốc tế, cần có một chiến lược xây dựng thương hiệu quốc gia dựa trên xác minh khoa học, truyền thông hiệu quả và tầm nhìn dài hạn từ các nhà hoạch định chính sách.

Việc xây dựng thị trường carbon không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết Net Zero mà còn mở ra cơ hội kinh tế mới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững. Để đạt được mục tiêu này, việc hoàn thiện khung pháp lý, nâng cấp hạ tầng dữ liệu và quản trị là những bước đi quan trọng. Đồng thời, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, tổ chức và cộng đồng địa phương cũng là yếu tố then chốt trong việc phát triển thị trường carbon hiệu quả.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm từ các nước để xây dựng thị trường carbon vững chắc. Với sự nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng, thị trường carbon tại Việt Nam có thể trở thành một trong những công cụ kinh tế quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển bền vững.

]]>
Năng lượng sạch Việt Nam: Tìm lời giải cho bài toán vốn và cơ chế https://xahoivietnam.com/nang-luong-sach-viet-nam-tim-loi-giai-cho-bai-toan-von-va-co-che/ Mon, 21 Jul 2025 13:41:09 +0000 https://xahoivietnam.com/nang-luong-sach-viet-nam-tim-loi-giai-cho-bai-toan-von-va-co-che/

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất Đông Nam Á, với tổng công suất ước tính lên đến gần 600 GW. Ngoài ra, với trữ lượng sinh khối dồi dào từ nông nghiệp và bức xạ mặt trời cao quanh năm ở khu vực miền Trung và miền Nam, tiềm năng phát triển năng lượng sạch ở Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, việc thực hiện quá trình chuyển đổi sang nguồn năng lượng sạch đang gặp phải nhiều khó khăn.

Bài 6: Cơ chế tài chính xanh và bảo lãnh tín dụng: “Chìa khóa” thu hút vốn vào các dự án LNG và điện gió ngoài khơi
Bài 6: Cơ chế tài chính xanh và bảo lãnh tín dụng: “Chìa khóa” thu hút vốn vào các dự án LNG và điện gió ngoài khơi

Thị phần năng lượng tái tạo trong tổng mức năng lượng của quốc gia vẫn còn thấp. Số lượng các dự án đầu tư vào năng lượng tái tạo còn ít, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và LNG, những nguồn năng lượng được coi là trụ cột trong chuyển dịch cơ cấu nguồn điện để đảm bảo an ninh năng lượng. Các chuyên gia cũng cho rằng quá trình hiện thực hóa tiềm năng này đang bị chậm lại đáng kể.

Bài 6: Cơ chế tài chính xanh và bảo lãnh tín dụng: “Chìa khóa” thu hút vốn vào các dự án LNG và điện gió ngoài khơi
Bài 6: Cơ chế tài chính xanh và bảo lãnh tín dụng: “Chìa khóa” thu hút vốn vào các dự án LNG và điện gió ngoài khơi

Mặc dù Quy hoạch điện VIII đã điều chỉnh mục tiêu phát triển mạnh điện gió ngoài khơi và điện khí LNG, song đến nay chưa có dự án điện gió ngoài khơi nào được triển khai thực tế. Chỉ có 3 trong số 13 dự án LNG hiện hữu đang đúng tiến độ. Nguyên nhân chủ yếu đến từ ba “nút thắt” lớn: thiếu cơ chế giá điện rõ ràng và hấp dẫn; thủ tục đầu tư – phê duyệt dự án còn chồng chéo; đặc biệt là khó khăn trong huy động vốn, cả vốn đầu tư ban đầu lẫn vốn vận hành dài hạn.

Nếu không tháo gỡ các “nút thắt” này, rất khó để đạt mục tiêu mà Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và cam kết Net Zero đặt ra. TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính, nhận định rằng: “Dòng vốn này sẽ không tự chảy đến nếu không có hệ sinh thái tài chính xanh rõ ràng, cơ chế bảo lãnh tín dụng hợp lý và hành lang pháp lý minh bạch, ổn định lâu dài”. Việc chưa có bộ tiêu chí thống nhất đánh giá dự án xanh, chưa có thị trường trái phiếu xanh phát triển đầy đủ, cũng như thiếu cơ chế ưu đãi thuế – phí đang khiến dòng vốn xanh vẫn còn chảy chậm.

Theo khuyến nghị của nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế, Việt Nam cần khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý về tài chính xanh. Một số giải pháp được đề xuất bao gồm: Ban hành tiêu chuẩn quốc gia về dự án xanh để các tổ chức tài chính có căn cứ thẩm định; Tạo lập thị trường trái phiếu xanh với cơ chế ưu đãi về thuế, tín dụng và quy trình phát hành đơn giản; Khuyến khích các ngân hàng thương mại phát triển sản phẩm tín dụng xanh thông qua hỗ trợ lãi suất, chia sẻ rủi ro từ quỹ bảo lãnh; Thành lập các quỹ tài chính xanh quốc gia để làm “vốn mồi”, thu hút thêm các nguồn lực từ khu vực tư nhân và quốc tế.

Trong bối cảnh dòng vốn quốc tế còn dè dặt, sự vào cuộc chủ động của các doanh nghiệp nhà nước hàng đầu như Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) sẽ là cú hích quan trọng. Với năng lực tài chính, uy tín quốc tế và vai trò trong ngành năng lượng, các doanh nghiệp này có thể làm “cầu nối tín nhiệm” giữa Chính phủ và nhà đầu tư quốc tế.

Việt Nam đã cam kết đạt Net Zero vào năm 2050, đồng thời đặt mục tiêu phát triển điện gió ngoài khơi và LNG thành trụ cột an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, để biến các mục tiêu thành hiện thực, cần có những hành động cụ thể và quyết liệt ngay từ bây giờ.

Năng lượng tái tạo đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và đạt được mục tiêu Net Zero.

]]>