Hạ tầng số – Xahoivietnam.com https://xahoivietnam.com Cập nhật tin tức mới nhất về xã hội Việt Nam, văn hóa, đời sống, và những vấn đề thời sự. Sat, 30 Aug 2025 09:52:43 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/home.svg Hạ tầng số – Xahoivietnam.com https://xahoivietnam.com 32 32 Quốc hội số: Đổi mới phương thức hoạt động để phục vụ người dân tốt hơn https://xahoivietnam.com/quoc-hoi-so-doi-moi-phuong-thuc-hoat-dong-de-phuc-vu-nguoi-dan-tot-hon/ Sat, 30 Aug 2025 09:52:35 +0000 https://xahoivietnam.com/quoc-hoi-so-doi-moi-phuong-thuc-hoat-dong-de-phuc-vu-nguoi-dan-tot-hon/

Chuyển đổi số trong hoạt động của Quốc hội đang trở thành một yêu cầu cấp thiết trong thời đại của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số. Quốc hội Việt Nam, với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đang đối mặt với nhu cầu đổi mới toàn diện phương thức hoạt động để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong các lĩnh vực lập pháp, giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước.

Đại biểu tham dự Đại hội. Ảnh: Hồ Long
Đại biểu tham dự Đại hội. Ảnh: Hồ Long

Trước thực trạng mô hình làm việc truyền thống còn mang tính chất thủ công, dữ liệu phân tán, thiếu kết nối, nguy cơ mất tính thời sự trong việc ra quyết định đã trở nên rõ ràng. Để khắc phục vấn đề này, một trong những giải pháp quan trọng là tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của chuyển đổi số trong vận hành hoạt động của Quốc hội; đồng thời định hình lộ trình và giải pháp cụ thể với sự chỉ đạo chiến lược và quyết liệt của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số của Quốc hội.

Đại biểu tham dự Đại hội. Ảnh: Hồ Long
Đại biểu tham dự Đại hội. Ảnh: Hồ Long

Thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của Quốc hội đã được thành lập vào ngày 15/11/2024. Kể từ khi thành lập, Ban Chỉ đạo đã đạt được những kết quả ban đầu rất tích cực. Vào ngày 13/5/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1637/NQ-UBTVQH15, phê duyệt Đề án Chuyển đổi số của Quốc hội giai đoạn 2025-2030. Cùng với đó, Hệ thống App Quốc hội 2.0 đã được xây dựng, cho phép đại biểu Quốc hội sử dụng trên các thiết bị di động để phục vụ hoạt động của mình. Hệ thống này đã được nâng cấp với nền tảng số toàn diện, thiết kế chuyên biệt, hỗ trợ rất hiệu quả hoạt động của đại biểu trong việc quản lý tài liệu và tra cứu thông tin.

Bí thư Chi bộ, Vụ trưởng Vụ Chuyển đổi số Bùi Danh Tuyên trình bày tham luận tại Đại hội. Ảnh: Phạm Thắng
Bí thư Chi bộ, Vụ trưởng Vụ Chuyển đổi số Bùi Danh Tuyên trình bày tham luận tại Đại hội. Ảnh: Phạm Thắng

Bên cạnh Hệ thống App Quốc hội 2.0, còn có các hệ thống khác như Hệ thống Gỡ băng ghi âm, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong hoạt động của Quốc hội, Hệ thống Quản lý văn bản và điều hành điện tử. Tất cả các hệ thống này đều mang lại hiệu quả vượt trội với tốc độ xử lý và độ chính xác cao.

Đại biểu tham dự Đại hội. Ảnh: Hồ Long
Đại biểu tham dự Đại hội. Ảnh: Hồ Long

Để thực hiện thành công các nhiệm vụ đề ra, việc tập trung vào một số giải pháp trọng tâm trong tổ chức và triển khai là cần thiết. Điều này bao gồm xây dựng nhận thức và văn hóa số, hoàn thiện hạ tầng và nền tảng số, số hóa quy trình và tự động hóa, cũng như tăng cường tương tác và minh bạch với cử tri.

Với sự chỉ đạo chiến lược của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và quyết tâm chính trị cao, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một ‘Quốc hội số’ minh bạch, hiện đại, đáp ứng kỳ vọng của nhân dân và xu thế phát triển.

]]>
Nâng cao liên kết doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh https://xahoivietnam.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/ Sat, 30 Aug 2025 08:58:11 +0000 https://xahoivietnam.com/nang-cao-lien-ket-doanh-nghiep-de-tang-suc-canh-tranh/

Liên kết doanh nghiệp đang trở thành một yếu tố quan trọng trong bối cảnh thế giới đầy biến động. Thông qua việc liên kết, các doanh nghiệp có thể mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới, đồng thời chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)
Đánh giá của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo về các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh quý I/2025 (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện)

Các hình thức liên kết doanh nghiệp hiện nay rất đa dạng, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược. Trong mối liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng tăng. Liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước có điều kiện thuận lợi để phát triển thông qua chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản.

Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).
Đề xuất, kiến nghị, mong muốn của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (theo Báo cáo kết quả khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I/2025 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) thực hiện).

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, cho biết Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế và tham gia một số khâu của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mạng lưới doanh nghiệp liên kết vẫn bị giới hạn trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu. Đồng thời, còn thiếu các doanh nghiệp lớn, cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân, có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước.

Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết. Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy, các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra.

Số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Điều này cho thấy sự cần thiết phải tăng cường liên kết doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bao gồm năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp chưa đủ. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ để thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, bao gồm việc tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh, xây dựng và phát triển hạ tầng số hiện đại, và chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng.

Các chuyên gia cũng kiến nghị việc cần thiết phải điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

Các giải pháp trên nhằm mục đích tăng cường liên kết doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việc này cũng đòi hỏi sự vào cuộc của cả doanh nghiệp và Nhà nước, nhằm xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.

Trong bối cảnh hiện nay, liên kết doanh nghiệp không chỉ là một giải pháp tạm thời mà còn là một chiến lược lâu dài cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. Thông qua liên kết, doanh nghiệp có thể cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức và tạo ra các cơ hội mới cho sự phát triển.

Nhìn chung, liên kết doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, cần có sự chung tay của cả doanh nghiệp và Nhà nước, cũng như một chiến lược cụ thể và hiệu quả.

]]>
Lâm Đồng tiên phong chuyển đổi số với Tập đoàn Viettel, nhắm tới nhà máy công nghệ cao https://xahoivietnam.com/lam-dong-tien-phong-chuyen-doi-so-voi-tap-doan-viettel-nham-toi-nha-may-cong-nghe-cao/ Wed, 23 Jul 2025 02:49:10 +0000 https://xahoivietnam.com/lam-dong-tien-phong-chuyen-doi-so-voi-tap-doan-viettel-nham-toi-nha-may-cong-nghe-cao/

Lâm Đồng là tỉnh tiên phong trên cả nước thực hiện chương trình chuyển đổi số toàn diện với Tập đoàn Viettel ngay sau quá trình sáp nhập. Sự kiện này thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của chính quyền tỉnh trong việc ổn định tổ chức và đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế – xã hội.

Thác K50 mộng mơ mùa hoa ngô đồng giữa đại ngàn Kon Chư Răng
Thác K50 mộng mơ mùa hoa ngô đồng giữa đại ngàn Kon Chư Răng

Ông Hồ Văn Mười, Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, cho biết rằng mặc dù tỉnh đã triển khai một số hạng mục về chuyển đổi số, vẫn còn nhiều việc cần tiếp tục thực hiện hoặc đẩy mạnh, đặc biệt là việc đồng bộ hóa dữ liệu và nền tảng từ các tỉnh đã sáp nhập. Tại buổi làm việc với Tập đoàn Viettel, UBND tỉnh Lâm Đồng đã đề xuất hỗ trợ đẩy mạnh chuyển đổi số trên các lĩnh vực chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.

Đồng chí Phó TGĐ Tập đoàn Cao Anh Sơn chia sẻ về những nhóm việc và lộ trình cụ thẻ của các chương trình hành động số cho tỉnh
Đồng chí Phó TGĐ Tập đoàn Cao Anh Sơn chia sẻ về những nhóm việc và lộ trình cụ thẻ của các chương trình hành động số cho tỉnh

Đề xuất cụ thể của tỉnh Lâm Đồng bao gồm xây dựng hạ tầng số đồng bộ, cơ sở dữ liệu dùng chung và nền tảng tích hợp để nâng cao hiệu quả quản trị và phục vụ người dân, doanh nghiệp thông qua ứng dụng công nghệ. Tỉnh mong muốn Viettel hỗ trợ phát triển hạ tầng số và kết nối 4G/5G trên toàn tỉnh; triển khai Hệ thống một cửa điện tử; ứng dụng chữ ký số; kết nối và đồng bộ hóa dữ liệu từ các tỉnh cũ; triển khai hệ thống báo cáo phân tích dữ liệu và cảnh báo sớm phục vụ công tác điều hành của UBND tỉnh.

Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình
Mùa sen nở rộ thu hút du khách đến với vùng non nước hùng vĩ Ninh Bình

Bên cạnh đó, Lâm Đồng cũng đề xuất Viettel xem xét chọn tỉnh làm địa điểm triển khai các dự án nhà máy công nghệ cao, như nhà máy bán dẫn, trung tâm dữ liệu. Ông Tào Đức Thắng, Chủ tịch – Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel, đã có buổi trao đổi trực tiếp với lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng, lắng nghe các đề xuất và chia sẻ kinh nghiệm triển khai chuyển đổi số của Viettel.

Theo ông Thắng, có 6 mục tiêu trọng yếu cần phối hợp thực hiện sớm trong quá trình chuyển đổi số, bao gồm hoàn thiện thể chế tại các sở, ban, ngành để chuyển sang môi trường số; thu thập, liên thông và số hóa dữ liệu; xây dựng và nâng cấp hạ tầng kết nối, bổ sung phần cứng và phần mềm; xây dựng các bài toán ứng dụng trên nền tảng số; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin; và bảo đảm nguồn lực cho toàn bộ quá trình triển khai.

Tỉnh Lâm Đồng mới được thành lập trên cơ sở sáp nhập ba tỉnh cũ gồm Lâm Đồng, Đắk Nông và Bình Thuận. Sau sáp nhập, tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước với 24.233 km², dân số khoảng 3,87 triệu người và 124 đơn vị hành chính cấp xã. Năm 2024, GRDP của tỉnh đạt 319.887 tỷ đồng, tăng trưởng 4,02% so với năm trước, xếp hạng 8/34 toàn quốc.

Quá trình sáp nhập đã mang lại cho Lâm Đồng một tầm vóc phát triển mới, với nền kinh tế đa dạng và không gian rộng mở để triển khai chuyển đổi số, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như nông nghiệp và du lịch. Tuy nhiên, địa phương cũng đối mặt với nhiều thách thức như quy mô địa bàn rộng, địa hình chia cắt, sự đa dạng về dân tộc… Đây là những yếu tố đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc phổ cập công nghệ và triển khai các giải pháp chuyển đổi số mang tính đặc thù, phù hợp với thực tiễn.

]]>
Bộ Khoa học và Công nghệ đặt mục tiêu 100% văn bản được ký số vào năm 2030 https://xahoivietnam.com/bo-khoa-hoc-va-cong-nghe-dat-muc-tieu-100-van-ban-duoc-ky-so-vao-nam-2030/ Mon, 21 Jul 2025 08:41:52 +0000 https://xahoivietnam.com/bo-khoa-hoc-va-cong-nghe-dat-muc-tieu-100-van-ban-duoc-ky-so-vao-nam-2030/

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, Trung tâm Công nghệ thông tin của Bộ Khoa học và Công nghệ đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số và công nghệ số. Với vai trò là hạt nhân về công nghệ thông tin, chuyển đổi số và an toàn thông tin mạng, Trung tâm đã tích cực triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2023-2024.

Cấp ủy Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin nhiệm kỳ 2025 - 2030. Ảnh: TTTT
Cấp ủy Chi bộ Trung tâm Công nghệ thông tin nhiệm kỳ 2025 – 2030. Ảnh: TTTT

Đạt được nhiều kết quả tích cực trong giai đoạn 2023-2024, Trung tâm đã duy trì hoạt động ổn định hệ thống chính phủ điện tử của Bộ, với tỷ lệ văn bản ký số đạt 94,57% vào năm 2023. Hệ thống tiếp nhận và xử lý hơn 146.000 văn bản đến và hơn 130.000 công việc trong năm 2024. Việc áp dụng mô hình bảo vệ bốn lớp đã giúp Trung tâm đảm bảo năng lực phòng thủ số trước các nguy cơ tấn công mạng, góp phần bảo vệ thông tin và hệ thống.

Bên cạnh việc tập trung vào công tác chuyên môn, Trung tâm còn đóng vai trò chiến lược trong truyền thông chính sách số. Với hơn 12.000 tin bài được đăng tải và gần 400 sản phẩm đa phương tiện được sản xuất mỗi năm trên Cổng thông tin điện tử của Bộ, hệ thống thông tin đã truyền tải các chủ trương về chuyển đổi số, an toàn thông tin, dữ liệu số và 5G đến người dân, doanh nghiệp và địa phương.

Nhiệm kỳ 2025-2030, Chi bộ Trung tâm đặt mục tiêu trở thành đơn vị hạt nhân về hạ tầng số, dữ liệu số và công nghệ số, phục vụ công tác quản lý nhà nước và sự nghiệp khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, Trung tâm sẽ hoàn thiện, nâng cấp các nền tảng công nghệ phục vụ điều hành, cải cách hành chính; phát triển hệ thống thông tin quản lý tích hợp, kết nối ba cấp chính quyền; phát triển dịch vụ công trực tuyến mức độ cao với tỷ lệ dịch vụ toàn trình đạt 100%.

Cụ thể, Chi bộ đề ra các mục tiêu: 100% văn bản được ký số; 95% văn bản trao đổi qua hệ thống điều hành điện tử; 100% cán bộ chuyên môn được đào tạo kỹ năng số hằng năm. Trung tâm cũng sẽ phát triển theo 5 trụ cột, bao gồm xây dựng nền tảng quản trị số của Bộ, quy hoạch và phát triển hạ tầng số theo mô hình cloud-first, phát triển hệ thống giải quyết thủ tục hành chính tích hợp đa kênh, phát triển kho dữ liệu số liên ngành và xây dựng Trung tâm điều hành an toàn, an ninh mạng.

Phát biểu tại Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2030, tổ chức hôm 10/7 tại Hà Nội, ông Đỗ Công Anh, Bí thư Chi bộ, Giám đốc Trung tâm cho biết Bộ Khoa học và Công nghệ luôn thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính, hiện đại hóa phương thức quản lý nhà nước. Bộ Khoa học và Công nghệ đã và đang tích cực hỗ trợ Trung tâm trong việc xây dựng và phát triển hạ tầng số, dữ liệu số và công nghệ số.

]]>
Quảng Ngãi bứt phá với hạ tầng số và dịch vụ công trực tuyến https://xahoivietnam.com/quang-ngai-but-pha-voi-ha-tang-so-va-dich-vu-cong-truc-tuyen/ Fri, 18 Jul 2025 22:56:05 +0000 https://xahoivietnam.com/quang-ngai-but-pha-voi-ha-tang-so-va-dich-vu-cong-truc-tuyen/

Trong bối cảnh hiện nay, đầu tư và hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là ưu tiên hàng đầu giúp các địa phương bứt phá và phát triển nhanh, bền vững. Tỉnh Quảng Ngãi đã và đang đẩy mạnh việc hoàn thiện hạ tầng số, nhằm mang lại hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc phát triển hạ tầng số. Hiện nay, 100% thôn, làng trên địa bàn tỉnh đã được phủ sóng di động 3G, 4G. Mạng 5G đã được triển khai tại các khu đô thị, công nghiệp với 58 trạm BTS. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng cáp quang đạt 73%, trong khi 83% dân số trưởng thành sở hữu điện thoại thông minh.

Trung tâm dữ liệu tỉnh Quảng Ngãi được đầu tư với dung lượng lưu trữ lên đến 170 TB, vận hành 24 hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, kết nối gần 60 ứng dụng. Hệ thống quản lý văn bản điện tử đã được triển khai tới 1.523 cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ sử dụng văn bản điện tử ở cấp sở, ngành đạt hơn 99%. Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính vận hành ổn định, cung cấp 732 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, số hóa hồ sơ và kết quả đạt trên 99% ở cấp tỉnh.

Bên cạnh đó, công tác đảm bảo an toàn, an ninh mạng cũng được tỉnh Quảng Ngãi chú trọng. Các hệ thống SOC, phòng chống mã độc đã được triển khai đồng bộ, giúp kịp thời phát hiện và xử lý hơn 4.500 cảnh báo nguy cơ mất an toàn thông tin.

Những nỗ lực của tỉnh Quảng Ngãi trong việc hoàn thiện hạ tầng số và đẩy mạnh chuyển đổi số đã góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững của địa phương.

Việc hoàn thiện hạ tầng số và đẩy mạnh chuyển đổi số tại Quảng Ngãi đã mang lại nhiều lợi ích cho người dân và doanh nghiệp. Việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến và số hóa hồ sơ giúp giảm thiểu thời gian và chi phí, tăng cường sự minh bạch và hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành.

Trong thời gian tới, tỉnh Quảng Ngãi sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện hạ tầng số, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động quản lý, điều hành và sản xuất kinh doanh. Đồng thời, tỉnh cũng sẽ chú trọng đến công tác đảm bảo an toàn, an ninh mạng, nhằm bảo vệ thông tin và tài sản của người dân và doanh nghiệp.

Với những nỗ lực và kết quả đạt được, tỉnh Quảng Ngãi đang là một trong những địa phương đi đầu trong việc hoàn thiện hạ tầng số và đẩy mạnh chuyển đổi số. Đây là tiền đề quan trọng để tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.

]]>